Viên Minh không đi suốt đêm về Bích La Động, thứ nhất là đi đường ban đêm không an toàn, thứ hai là hắn cũng không biết mình đang ở chỗ nào, xung quanh sẽ có nguy hiểm gì, nên dự định đợi hừng đông rồi tính sau.
Hắn dựng qua loa một lều cỏ trong rừng cây ven hồ, xong ngồi xếp bằng xuống, hồi tưởng lại những việc đã gặp hôm nay.
Viên Minh có một thói quen rất tốt là sau mỗi lần gặp chuyện lớn, hắn đều sẽ cẩn thận nhớ lại, tổng kết ra chỗ thiếu sót của mình.
Hôm nay sở dĩ hắn liên tiếp gặp nạn là do hắn cân nhắc không chu toàn, chuẩn bị không đủ, biết rõ Thiên Lô hồ có diện tích cực lớn, lại không nghĩ đến khả năng bị lạc đường, trong khi trong Bích La Động cũng có đồ vật dạng la bàn, nếu như trước đó hắn chuẩn bị một cái, làm sao có những rắc rối sau đó được.
Viên Minh khẽ thở ra một hơi, âm thầm ghi khắc bài học này vào trong tâm khảm.
Hôm này dù gặp nạn nhưng thu hoạch cũng rất lớn, một bộ điển tịch ‘Kỳ Thạch Lục’, bốn khối Hỏa Ngọc tủy, một cây thiết chùy(búa) đỏ sẫm, một cái túi trữ vật có không gian lớn, còn có bản Hắc Mộc thủ trát kia, mỗi một món đều bảo vật.
“Đúng, xém chút quên còn có cái này.” Viên Minh lật tay lấy ra một thứ, chính là quả đào màu đỏ mà hắn hái lúc trước.
Quả đào tỏa ra từng đợt hương thơm thấm vào tận ruột gan, hơn nữa có thể cảm nhận được linh lực đậm đặc ẩn chứa bên trong đó, tuyệt đối là một linh quả hiếm có, có lẽ sẽ giúp ích không nhỏ cho việc đề thăng tu vi.
Có điều hắn không biết lai lịch, công dụng của quả này, tùy tiện ăn vào sợ rằng không ổn.
“Tốt hơn là đợi về tông môn, điều tra rõ ràng rồi tính sau.” Viên Minh nuốt nước miếng, thu quả đào lại.
Hắn lấy bản Hắc Mộc thủ trát kia ra, bắt đầu cẩn thận lật đọc.
Phía trước bản chép tay là Hắc Mộc đại sự tự thuật, giới thiệu cuộc đời y. Y xuất thân từ một bộ lạc nhỏ lấy nghề rèn mà sống tại Nam Cương, từ thủa nhỏ đã vô cùng yêu thích luyện khí, chỉ tiếc y trời sinh thân thể yếu ớt, không cách nào học thuật rèn đúc của bản tộc.
Sau nhờ một cơ hội ngẫu nhiên, Hắc Mộc được phát hiện thân mang linh căn, hơn nữa còn là Hỏa Mộc song linh căn, cho nên được người trong tộc đưa tới Bích La Động tu luyện.
Bản thân Hắc Mộc không hứng thú lắm với chuyện tu tiên, lòng vẫn luôn hướng về luyện khí, thế nhưng thuật luyện khí của Bích La Động cũng có yêu cầu khá cao với lực lượng thân thể, Hắc Mộc lại trời sinh yếu ớt, rốt cuộc vẫn không thể học tập, chỉ có thể ở Hỏa phường làm mấy việc sàng liệu, hoặc nhiệm vụ yêu cầu số lần vung búa ít.
Hắc Mộc vẫn không từ bỏ, một mặt cố gắng làm tốt công việc thuộc bổn phận của mình, một mặt tìm kiếm biện pháp giải quyết vấn đề thiếu khuyết lực lượng.
Y tin chắc rằng mình là người sinh ra để luyện khí.
Vào lúc đó, Hắc Mộc đại sư tiếp xúc với Khu Vật thuật, lập tức sinh ra linh cảm.
Bằng vào sự thông mình, tài trí của bản thân, Hắc Mộc đại sư mạnh mẽ kết hợp Khu Vật thuật và việc quai búa rèn đúc lại với nhau, giải quyết hoàn mỹ vấn đề lực lượng thiếu hụt, chính thức đạp lên con đường luyện khí, từ đó không còn có gì có thể ngăn cản y nữa.
Đúng như niềm tin vững chắc của Hắc Mộc đại sư, y đúng là luyện khí sư trời sinh, chỉ dùng thời gian mười năm đã học xong tất cả các phương pháp luyện khí của Bích La Động, đồng thời còn dung hợp chúng lại với nhau, sáng tạo ra lưu phái luyện khí của riêng mình, Hắc Mộc lưu.
Theo lời tự thuật, phần sau bản thủ trát ghi lại tâm đắc luyện khí cả đời Hắc Mộc đại sư, cùng đủ loại ý tưởng của y, có thể nói là kết tinh tâm huyết và sở cầu(1) một đời.
Đọc đến đây, sắc mặt Viên Minh trở nên nghiêm túc.
Trần Uyển từng nói, Hắc Mộc đại sư dù được khen là thiên tài luyện khí số một trong trăm năm qua của Bích La Động, nhưng chẳng biết vì sao mà thuật luyện khí của y hình như vẫn chưa được truyền bá trong Bích La Động, nếu để người khác trong tông biết Hắc Mộc thủ trát ở trong tay hắn, không biết sẽ rước tới bao nhiêu sóng gió.
“Chuyện trong đảo sương mù không thể để cho bất kỳ ai biết, túi trữ vật màu đen kia cũng phải giấu đi!” Viên Minh thầm quyết định, xong mới đọc tiếp.
Chữ trong phần tự thuật sau đó bắt đầu trở nên nguệch ngoạc, cơ bản đều là nghi nan mà Hắc Mộc đại sư gặp phải trong quá trình luyện khí, hoặc là những lời phàn nàn được viết khi tâm trạng không tốt, có điều đoạn này viết rất rời rạc, trước sau không hề liền mạch.
Viên Minh cũng không lười biếng, cẩn thận đọc kỹ từng câu từng chữ, không bỏ qua bất kỳ chi tiết nhỏ nào.
Theo lời Trần Uyển nói, chuyện Hắc Mộc đại sư đột nhiên mất tích đã tạo ra phong ba không nhỏ trong tông môn, từ trong bản chép tay có thể tìm ra một ít manh mối.
Nhưng lời tản mạn của Hắc Mộc đại sư để lộ không ít tin tức. Đại khái là sau khi thuật luyện khí của y ngày càng tinh diệu, dường như y bị tông môn Bích La Động kiềm chế, về sau lại gặp thất bại khi luyện chế một một kiện bí bảo đặc thù, cuối cùng dứt khoát quyết định rời khỏi Bích La Động.
“Còn tiếp tục như vậy, tất cả mọi người sẽ chết!”
Đây là câu cuối cùng mà Hắc Mộc đại sư viết trong phần tự thuật của bản chép tay.
“Tất cả mọi người sẽ chết? Là có ý gì?” Viên Minh lẩm bẩm tự hỏi. Hắn không đoán ra lời này của Hắc Mộc đại sư là có ý gì.
Đã không nghĩ ra, hắn cũng không hao tâm phí sức vào nó nữa, tiếp tục lật xem thuật luyện khí mà Hắc Mộc đại sư lưu lại ở phần sau.
Luyện khí thuật của Hắc Mộc lưu chia làm bốn bước, bước đầu tiên là dung luyện khoáng thạch, sau đó là rèn phôi.
Hai bước này Viên Minh cũng không xa lạ gì.
Dựa theo lời Hắc Mộc đại sư, dung luyện và rèn phôi nhìn đơn giản lại là căn cơ để rèn đúc một kiện đồ vật, chỗ cần chú ý rất nhiều, phối trộn khoáng thạch, kiểm soát nhiệt độ lửa, cường độ đập…vv…, bất kỳ vấn đề nào dù là nhỏ đều sẽ ảnh hưởng đến quá trình luyện khí sau đó.
Hắc Mộc đại sư tốn rất nhiều tâm tư trên hai bước dung luyện và rèn phôi, nội dung mỗi bước đều phức tạp hơn nhiều so với Hỏa phường, ví dụ ngay như rèn phôi, trong Hỏa phường yêu cầu tối thiểu là ngàn lần nện búa, trong khi Hắc Mộc đại sư lại yêu cầu đạt tới vạn lần nện búa, hơn nữa mỗi một khâu nhỏ trong quá trình nện rèn cũng đều yêu cầu rất cao.
Viên Minh nhìn sơ sơ một lượt, dù còn rất nhiều chỗ chưa hiểu, nhưng thỉnh thoảng lại có cảm giác mới tỉnh khỏi cơn mê, tự nhiên hiểu ra.
Nhưng hắn không nghiên cứu kỹ ở đây mà tiếp tục xem phần sau.
Hắn hiện giờ không đủ lực lượng, nên ở trong Hỏa phường của Bích La Động cũng chỉ mới tiếp xúc đến hai bước trước, không biết tiếp đó luyện khí sẽ như thế nào. Hắn đã tò mò chuyện này từ lâu, bây giờ rốt cuộc đã có thể hiểu được tương đối toàn diện.
Viên Minh nhanh chóng lật sách, đọc nhanh như gió cuốn, kết hợp với bản thân tự cân nhắc, rất nhanh đã hiểu rõ toàn bộ trình tự quá trình luyện khí.
Sau dung luyện và rèn phôi, hai bước tiếp theo của luyện khí là khắc phù và quán linh.
Nếu chỉ tiến hành dung luyện và rèn phôi, vũ khí được chế ra cũng chỉ là phàm khí. Vũ khí đó dù rèn đúc tốt thế nào, nhiều nhất cũng chỉ là sắc bén, cứng cỏi hơn vũ khí bình thường một chút, ví dụ như Thanh Ngư kiếm.
Muốn luyện chế ra pháp khí có uy năng đặc thù, cần phải tiến hành khắc phù và quán linh.
Cái gọi là khắc phù, chính là khắc sâu một chút phù văn ẩn chứa uy năng thần kỳ lên trên vũ khí, khiến cho vũ khí ẩn chưa hiệu quả đặc thù, từ đó có thể khiến vũ khí càng sắc bén hơn, khiến nó trở nên cứng cỏi dị thường, thậm chí còn có thể khiến cho vũ khí kích phát ra các loại uy lực như hỏa diễm, lôi điện…vv…
“Đồ án được khắc trên cái búa đập khoáng thạch trong Hỏa phường kia, hẳn chính là phù văn, bảo sao có thể dễ dàng đập nát khoáng thạch.” Viên Minh nhớ lại tình cảnh lần đầu tiên sàng liệu.
Phù văn cực kỳ quá báu, mỗi một luyện khí sự đều dùng thời gian cả đời, cố gắng hết khả năng để thu thập thêm nhiều phù văn, bởi cứ nắm giữ một phù văn là sẽ có thể luyện chế ra một kiện pháp khí mới.
Hắc Mộc đại sư cũng giống như vậy, bên trên bản chép tay của y có ghi lại bốn mươi lắm loại phù văn, có ‘Phong Nhuệ phù văn’, ‘Phá Giáp phù văn’, ‘Tật Phong phù văn’,…vv…(2)
Trong trang cuối cùng của phần viết về phù văn còn có một thứ phức tạp hơn, hình như là rất nhiều phù văn liên kết lại với nhau, lấy kiến thức hiện tại của hứn, cơ bản là không thể đọc hiểu được.
Khắc phù cũng không dễ dàng, Hắc Mộc cho rằng, mỗi một loại phù văn đều đại biểu cho một loại quy tắc vận hành của thiên địa linh lực, thời điểm khắc họa không thể xuất hiện bất kỳ sai lầm nào dù là nhỏ nhất, nếu không toàn bộ phù văn sẽ không có chút hiệu quả nào, mà muốn khắc họa phù văn thành thạo, cần phải luyện tập ròng rã năm này tháng nọ.
Rất nhiều luyện khí sư dành cả cuộc đời họ cho luyện khí, nhưng số phù văn mà họ có thể nắm giữ vẫn rất hạn chế. Sở dĩ Hắc Mộc đại sư thanh danh hiển hách, nguyên nhân chủ yếu nhất là y có tạo nghệ cực cao trên phương diện phù văn, bốn mươi lăm loại phù trong bản chép tay này, y đều nắm vững hết.
Luyện chế một kiện pháp khí, chỉ khắc họa phù văn thì vẫn chưa đủ, sau khi khắc phù văn tốt rồi, cũng không thể có uy năng được ngay, còn cần phải tiến hành quán linh cho nó.
Cái gọi là quán linh, nói đơn giản một chút, chính là rót pháp lực vào trong phù văn, kích phát uy năng của nó.
Một bước này nói có vẻ đơn giản, khi làm lại không hề dễ dàng. Quán linh có yêu cầu rất cao với việc thao túng pháp lực, bởi vì những phù văn mới khắc trên pháp khí thực ra đều rất mỏng manh, chỉ cần xung kích pháp lực hơi quá một chút là sẽ khiến phù văn sụp đổ.
Nói phù văn mới khắc là vì quán linh còn có một mục đích, chính là để phù văn và pháp khí hoàn toàn dung hợp.
Phù văn mới khắc sau khi dung hợp cùng pháp khí mới có thể hoàn toàn vứng chắc, chịu được những va chạm kịch liệt khi đấu pháp sau này. Muốn đạt được mục tiêu này, nếu chỉ dựa vào khả năng điều khiển pháp lực thuần thục thì còn thiếu rất nhiều, càng cần hơn một loại linh tính trời sinh, hay có thể nói cách khác là thiên phú.
Trong mấy bước luyện chế pháp khí, quán linh có xác suất thất bại cao nhất, cho dù là luyện khí sư có thâm niên, xác suất thành công cũng chỉ có hai, ba thành, căn cứ theo nội dung bản chép tay, dù là Hắc Mộc đại sư, xác suất quán linh thành công cũng chưa đến năm thành.
Viên Minh xem tới đây, không khỏi cảm thán luyện khí gian nan.
Hắn tiếp tục đọc tiếp những trang sau, rất mau đã đọc hết toàn bộ bản chép tay, ánh mắt nhìn về phía xa xa.
Viên Minh vốn không hứng thú lắm với luyện khí chi đạo, sở dĩ những ngày qua vẫn kiên trì học tập rèn đúc ở Hỏa phường, chủ yếu là để đứng vững gót chân tại Bích La Động, nhưng giờ có được bản Hắc Mộc thủ trát này, tương đương với việc hắn có một con đường tắt trên phương diện luyện khí, có lẽ có thể tới thử một phen.
Hắn không hy vọng xa vời đạt đến trình độ như Hắc Mộc đại sư, chỉ cần có thể luyện chế ra pháp khí bình thường nhất là được.
Những ngày qua ở tại Bích La Động, Viên Minh càng thêm hiểu rõ sức mạnh và tầm quan trọng của pháp khí.
Pháp khí chia ra bốn đẳng cấp gồm: Hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm và cực phẩm. Pháp khí trong tay đệ tử Bích La Động, đại đa số đều là pháp khí hạ phẩm cấp thấp nhất, nhưng dù là pháp khí hạ phẩm cũng không phải ai cũng có một kiện, về phần pháp khí trung phẩm thì cực kỳ ít thất, chỉ có một vài đệ tử nội môn mới có một kiện.
Bất tri bất giác, trong đầu Viên Minh hiện ra thân ảnh Khôn Đồ, cây cờ trong tay kẻ này chính là Âm Quỷ kỳ, chính là một kiện pháp khí trung phẩm, có tiếng tăm lừng lẫy trong Bích La Động.
Uy lực của Âm Quỷ kỳ thì bản thân hắn đã từng được trải nghiệm, nếu lúc đó không phải hắn trốn đủ nhanh thì sợ rằng đã phải bỏ mạng dưới cờ này.
Về phần pháp khí thượng phẩm và cực phẩm, Viên Minh chưa từng nghe nói qua có người sở hữu, nghe đồn chỉ có Trúc Cơ kỳ mới có thể có bảo vật như vậy trong tay.
Hắn lật tay rút Thanh Ngư kiếm, kiếm này trong những trận chiến gần đây phát huy tác dụng càng ngày càng nhỏ, nếu như có thể thăng nó lên làm pháp khí, cho dù là pháp khí hạ phẩm, thực lực của hắn sẽ có thể lập tức tăng nhiều.
Viên Minh im lặng một lúc, rồi lại lần nữa lật Hắc Mộc thủ trát, bắt đầu đọc lại từ đầu.
Thời gian một đêm trôi qua rất mau.
Viên Minh rời khỏi lều cỏ, sau khi xác định vị trí của mình, liền rảo bước đi thẳng về phía sơn môn Bích La Động.
*Chú giải*
1. Sở cầu: Tâm nguyện, ước muốn, mong muốn.
2. Phong nhuệ = sắc bén, tật phong = nhanh như gió.