Làn sương mù màu đen cuộn lại rồi tụ vào một chỗ làm lộ ra bóng dáng của ba tu sĩ Trúc Cơ kỳ.
Liếc mắt nhìn đống hài cốt trên mặt đất, ngũ sư thúc thở dài:
-Lá gan của đám liều mạng này ngày càng lớn rồi.
Việt sư thúc cau mày, nói:
-Thực lực cũng ngày càng mạnh lên, lần trước chỉ là vài tên Luyện Khí kỳ hại dân hại nước mà thôi, nhưng lần này ngay cả tu sĩ Trúc Cơ kỳ cũng tới rồi, pháp khí mà chúng sử dụng không giống như với một tán tu bình thường, đoán chừng mấy gia tộc tu chân kia không thể thoát khỏi liên quan với chuyện này được. Tiền tài làm rung động lòng người! Có vẻ phải từ bỏ Thần Khí các này rồi, thật đáng tiếc...
Đổng sư thúc hừ lạnh một cái, nói:
-Lần sau phải mời mấy vị sư huynh khách xuống núi huyết tẩy mấy gia tộc tu chân xung quanh núi U Sơn một lần, để xem còn có tên ngốc nào dám động tới nữa không!
...
Dưới bầu trời đêm, ánh sáng từ Phi Toa huyễn hóa ra bay nhanh như chớp.
Ba vị sư thúc chia ra thành Tam Tài trận hình, họ cùng nắm Phi Toa trong tay, còn Tần Tang và những người khác lại đứng ở chính giữa.
Tần Tang bị ánh sáng bao bọc quanh người, gần như không cảm giác được sự nghiêng ngả và gió rét xung quanh. Dãy núi và bình nguyên bên dưới như đang lướt qua mắt hắn làm gợi dậy ký ức kiếp trước của Tần Tang.
Tốc độ rất nhanh, Tần Tang vô cùng hâm mộ bản lĩnh của tu sĩ Trúc Cơ kỳ, nhưng bây giờ hắn chỉ có thể tiếp tục chịu khó tu luyện mà thôi.
Trước mặt người khác, Tần Tang không dám lấy Hồn Đan ra để trợ giúp việc tu luyện, Ngũ Hành Linh Căn đúng là danh bất hư truyền, chỉ trong một chu thiên mà linh lực trong cơ thể đã súc tích không còn bao nhiêu, vì thế hắn không tiếp tục lãng phí thời gian thêm mà nhân cơ hội tu luyện pháp chú tiếp.
Pháp chú rất phức tạp, không chỉ cần niệm chú quyết trong miệng mà cùng lúc còn phải phối hợp với ấn quyết.
Tần Tang vốn tưởng bản thân rất thông minh, học sẽ dễ dàng nhưng không ngờ mấy thứ như pháp quyết này vừa tối nghĩa lại khó đọc, vần của từ rất dị thường, xen lẫn là các cổ âm tối nghĩa và tiếng lóng khó hiểu.
Không chỉ vẫn, mỗi khi niệm một pháp quyết đều cần có thần thức, ấn quyết và linh lực cùng phối hợp, nhiêu đó đủ khiến Tần Tang luống cuống chân tay rồi. Lúc này hắn mới biết tu hành thực sự không đơn giản chút nào.
Bây giờ hắn mới chỉ niệm chú được Vân Độn Chi Pháp, cũng không thể niệm chú trong thời gian ngắn được.
Cho dù có miễn cưỡng phóng được pháp chú thì thời gian niệm chú quá dài khiến nó không có bất kì ý nghĩa gì trong thực chiến cả, pháp chú chưa đọc xong đã bị đối thủ giết chết.
Nếu muốn tùy ý sử dụng pháp chú thì phải lập tức phát ra, mà làm được việc đó phải khổ luyện trong thời gian dài, nhưng nhất định sẽ mâu thuẫn với thời gian tu luyện công pháp.
Phi Toa bay trong ba ngày, Tần Tang đánh giá hành trình ba ngày này còn khổ cực gấp mấy lần hành trình một năm vừa rồi của hắn.
Tầm nhìn rất nhỏ, chỉ có thể thấy được một chấm, đó chính là chênh lệch giữa tiên và phàm nhân.
Tuy núi U Sơn đã vào tiết trời lạnh mùa xuân, nhưng tuyết mùa đông đang dần tan, Phi Toa bay cách mặt núi một khoảng lớn cũng có thể thấy được cỏ cây khô héo bên dưới, đất đai phủ trắng tuyết, càng đi về phía bắc thì càng thấy nhiều băng nguyên rét lạnh, tuyết rơi lác đác.
Sáng sớm ngày thứ tư, Phi Toa đột nhiên rơi xuống, Tần Tang và những người khác bừng tỉnh, sau đó là cả kinh, rồi nhận ra cuối cùng đã tới sư môn, không khỏi tràn ngập mong đợi.
Trong khoảng thời gian ngắn, Tần Tang cảm thấy dưới chân hơi nặng, độn quang quanh người dần tiêu tán, Phi Toa biến nhỏ rơi vào lòng bàn tay Đổng sư thúc, sau đó bị hắn ta thu vào.
Thấy cảnh tượng trước mắt, lòng Tần Tang lạnh đi.
Bốn phương đều là đồng tuyết phủ dày, không có người ở.
Giữa những ngọn núi tuyết dài vô tận là những đỉnh núi hiểm cắm thẳng chân trời, vách núi ngàn thước, eo núi bị mây mù vờn quanh, phía dưới là vực sâu vạn trượng, sương mù u ám quanh năm không tản khiến vực sâu trông càng sâu hơn.
Ngọn núi này hệt như thanh kiếm sắc bén xông ra từ chốn Cửu U, mạnh mẽ chỉ lên bầu trời.
Núi tuyết trơ trọi trắng ngần, khó mà thấy được một bụi cỏ nào. Một ít nham thạch lộ ra đại biểu cho màu đen cằn cỗi.
Trên núi không có đình đài lầu gác như trong tưởng tượng, không có khúc thủy lưu thương*, lại càng không có cỏ cây tươi tốt, tiếng chim hương hoa gì. Nếu có thì ước chừng chỉ toàn mấy động phủ trên vách đá bị tuyết đọng ngoài cửa, trông vô cùng đơn sơ mộc mạc.
*khúc thủy lưu thương: là một loại trò chơi lưu truyền thời Trung Hoa cổ đại, có lịch sử mấy ngàn năm. Người ta bắt đầu đến ngồi ở hai bên bờ suối, đặt chén rượu trên mặt nước, chén rượu trôi đến trước mặt ai thì người ấy ngẫu hứng làm thơ. Sau khi làm thơ xong thì lấy chén rượu đó lên và uống cạn.
Một đỉnh núi hoang vắng hiu quạnh chính là sư môn của hắn?
Thấy Tần Tang và những người khác tỏ ra đờ đẫn, Việt sư thúc cười híp mắt nói:
-Khôi Âm tông không có một chút khí tượng tiên gia nào khiến các người rất thất vọng đúng không?
Ánh mắt của mọi người đồng loại nhìn về phía Việt sư thúc.
Không ai dám nói ra, nhưng ánh mắt lại chính là ý này.
Hai vị Đổng, Hồ sư thúc lấy pháp khí ra bay về phía đỉnh núi, còn Việt sư thúc lại mang Tần Tang và những người khác đi vào thung lũng.
-Khi bước chân vào tu luyện, cảnh sắc lộng lẫy trước mắt, thậm chí là phụ mẫu, bạn bè đều chỉ là vật bên ngoài, chỉ có thứ có thể trợ giúp các người tăng tu vi mới là thật... Các ngươi cảm nhận xem nơi này có gì khác so với bên ngoài.
Vừa nói, Việt sư thúc vừa dùng độn quang để mở ra một khe hở, gió lạnh đầu vào mặt, Tần Tang rùng mình một cái, vội vàng vận chuyển linh lực để xua đuổi khí lạnh, sau đó bên tai hắn truyền tới một loạt tiếng vang.